Nấm men với Tiêu chảy do Kháng sinh

Saccharomyces boulardii (S. boulardii) được dùng như probiotic từ năm 1950, hiệu quả trong ngừa tiêu chảy do kháng sinh (Bệnh viện Nhi đồng 2)
THỜI SỰ Y DƯỢC

Theo bài viết đăng trong mục “THỜI SỰ Y DƯỢC” của Bệnh viện Nhi đồng 2, Thành phố Hồ Chí Minh thì:

Saccharomyces boulardii (S. boulardii) được dùng như probiotic từ năm 1950:

  • Hiệu quả trong tiêu chảy nhiễm trùng cấp.
  • Hiệu quả ngừa tiêu chảy do kháng sinh.
  • Trị liệu phối hợp trong nhiễm trùng Helicobacter pylori.
  • Ngoài ra, S. boulardii còn có trong công thức dinh dưỡng bổ sung ở trẻ sinh non.

Trong khi cơ chế các probiotic còn chưa rõ ràng, thường được giải thích với chức năng tăng cường phòng vệ của cơ thể, cạnh tranh với các vi khuẩn gây bệnh, tăng cường hệ miễn dịch. S. boulardii có cơ chế tác động rõ ràng:

  • Tiết ra enzyme proteinase làm giảm độc tố do Clostridium difficile  và enzyme phosphatase làm bất hoạt các nội độc tố do E. coli tiết ra.
  • Tăng lượng IgA, tăng các men lactase, sucrase, maltase, and N-aminopeptidase.
  • Tăng hấp thu ở người tiêu chảy, duy trì các acid béo chuỗi ngắn cần thiết cho cho việc hấp thu nước và chất điện giải.
  • Thêm vào đó, S. boulardii làm giảm viêm ở đường ruột do kích thích tế bào T, ức chế mitogen-activating protein (MAP), nuclear factor-kappa B (NF-κB), do đó làm giảm interleukin (IL-8) và tumor necrosis factor alpha (TNFα).

Nguồn: http://www.benhviennhi.org.vn/news/detail/308/saccharomyces-boulardii-vA-thU-nghiEm-lAm-sAng-trEn-trE-em-nhiEm-h-pylori.html. (pdf )

Ưu điểm của men vi sinh (probiotic) nhóm Saccharomyces boulardii so với men vi sinh nhóm vi khuẩn

Men vi sinh có 2 nhóm chính:

  • Nhóm vi khuẩn: nhóm sinh axit lactic và nhóm không sinh axit lactic.
  • Nhóm nấm men như: Saccharomyces boulardii, Saccharomyces cerevisiae.

Đặc điểm

Nấm men

Vi khuẩn

Ưu điểm

Kích thước tế bào

10 µm

1 µm

Diện tích bề mặt nấm men lớn gấp 10 lần vi khuẩn nên khả năng bảo vệ thành ruột tốt hơn, tác nhân gây bệnh bám vào bề mặt nấm men và được thải loại qua phân nhiều hơn

Điều kiện phát triển (pH)

Phát triển tốt ở pH  7-8, phát triển tối ưu ở pH 4,5-6,5, có thể phát triển ở pH 3

6,5-7,5

Khả năng sống sót cao khi đi qua ống tiêu hóa → đảm bảo đủ số lượng điều trị

Sự đề khángkháng sinh

Không

Có thể dùng men vi sinh dạng nấm men đồng thời với kháng sinh

Sự truyền gen đềkháng

Khôngứng nhu cầu đ

Không có sự truyền gen đề kháng giữa nấm men và vi khuẩn nên nấm men tuyệt đối an toàn trong suốt liệutrình trị liệu bằng kháng sinh

Như vậy men vi sinh nhóm nấm men (S. Boulardii) có 2 ưu điểm chính so với men vi sinh nhóm vi khuẩn:

  • Đủ số lượng để đáp điều trị (khi uống vào đủ số lượng) do không bị dịch vị dạ dày tiêu diệt (pH ở đây thấp) giống như men vi sinh nhóm vi khuẩn.
  • Có thể uống cùng kháng sinh do Không bị kháng sinh tiêu diệt giống như men vi sinh nhóm vi khuẩn.

Nguồn tham khảo: Alimentary Pharmacology and Therapeutic, Trang 769  

LIỀU DÙNG CỦA MEN VI SINH CÓ CHỨA S. BOULARDI

Theo báo cáo “Báo cáo hội nghị đồng thuận khuyến cáo về chẩn đoán và điều trị tiêu cháy cấp ở trẻ em” của Bệnh viện Nhi trung ương và Hội Nhi khoa Việt Nam

Khuyến cáo về các biện pháp hỗ trợ trong điều trị tiêu chảy cấp ở trẻ em

Khuyến cáo 9: Probiotics trong điều trị tiêu chảy cấp (Khuyến cáo  mạnh, mức độ bằng chứng trung bình)

Khuyến cáo: S. boulardii với liều 200 – 250mg/ngày x 5  – 6 ngày có thể được cân nhắc sử dụng trong điều trị tiêu chảy cấp ở trẻ em kết hợp với bù nước và điện giải đầy đủ.

Xem thêm chi tiết: http://benhviennhitrunguong.org.vn/bao-cao-hoi-nghi-dong-thuan-khuyen-cao-ve-chan-doan-va-dieu-tri-tieu-chay-cap-o-tre-em.html.

Theo “Tạp chí Châu Âu về Khoa học Y học và Dược lý”

Chỉ định lâm sàng chính và liều khuyến cáo cho việc sử dụng S.Boulardii trong điều trị các bệnh tiêu hóa ở Trẻ em

Dự phòng: Tiêu chảy liên quan đến kháng sinh 1 x 1010 CFU (500mg) trong thời gian sử dụng kháng sinh, sau đó kéo dài thêm 7 – 9 ngày
Điều trị: Tiêu chảy cấp

< 1 tuổi: 0,5 x 1010 CFU   (250mg) trong 5- 6 ngày.

 >1 tuổi: 1x 1010 CFU (500mg) trong 5- 6 ngày.

Tham khảo: European Review for Medical and Pharmacological Sciences, trang 816